Hỗ trợ XD thiết kế viện bảo tàng lịch sử
bảo tàng occult
Về cơ bản các chương trình GD của bảo tồn đều tạo theo chủ đề của các bộ sưu tập của bảo tàng, tuy nhiên, cứ vào nhu cầu của công chúng, các hoạt động giáo dục còn mở mang ra các lĩnh vực khác như: triết học, văn chương, cá tính, diễn kịch hoặc các nội dung có tính thực tại gắn với đời sống hiện đại. Đến bảo tàng, trẻ em được học vẽ, sáng tác truyện tranh, hoạt hình, chụp ảnh, quay phim và tự làm những phim ngắn; có thể đăng ký những lớp học làm làm vườn, làm đồ thủ công, nấu bếp, làm bánh ... Nhiều câu lạc bộ đã được thành lập tại nhiều bảo tồn để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập, giao tiếp theo nhóm rất hiệu quả.
bảo tàng ở vũng tàu tại Huyện Quỳnh Phụ Với sự thay đổi về nhận thức từ chỗ bảo tồn lấy hiện vật làm trọng tâm sang lấy cộng đồng tầng lớp làm trung tâm, vai trò GD trong bảo tồn ngày càng được quý trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ, tích cực đến các hoạt động khác của bảo tồn. Nó được coi là cơ sở xác lập chiến lược hđ phát triển của mỗi bảo tồn, đồng thời, cứ vào ưu điểm, đặc điểm biệt lập và chức năng của mỗi bảo tàng cụ thể để rộng rãi hóa các hình thức hđ đáp ứng nhu cầu chính đáng của công chúng.
hiện tại, hoạt động quảng bá trí thức - giáo dục của bảo tàng không còn là sự chuyển giao một chiều từ người giáo dục (hướng dẫn, thuyết minh viên) sang người được giáo dục (khách tham quan) mà là sự đàm đạo hai chiều, ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Người ta không chỉ quan tâm đến việc bảo tồn “dạy” gì cho công chúng, mà quan yếu hơn là “công chúng học bằng cách trải nghiệm như thế nào”. Ở đây, công chúng là người học “chủ động” chứ chấm dứt là người nghe “thụ động” nữa. Công chúng được tiếp cận nhiều chiều để tự rút ra những trải nghiệm, tự đúc kết những bài học, những tri thức mới cho mình chứ không phải chỉ một chiều.
Tại các bảo tàng đã hình thành phòng giáo dục, giáo dục - Công chúng; hay Tuyên truyền- giáo dục hoặc có phòng ban, cán bộ chuyên trách về công việc giáo dục. Cùng với đó là việc tổ chức các hoạt động dành cho công chúng mang tính GD như công ty các hđ thúc đẩy, trải nghiệm cho các đối tượng (đẵn là học sinh) phê duyệt mô hình phòng Khám phá (bảo tàng Dân tộc học Đất Việt, bảo tồn nữ giới Việt Nam, bảo tàng Mỹ thuật Đất Việt, bảo tồn Hồ Chí Minh…).
Từ chỗ là các sưu tập được cất giữ để tàng trữ vì giá trị tiền tệ của hiện vật, hoặc là những sưu tập hiện vật lạ được Chi tiết vì tính quí hiếm, duy nhất, bảo tồn đã có mặt trên thị trường, PT, theo nghĩa rộng nhất được hiểu là “cơ quan được ủy thác giữ giàng các tài sản của con người và vì lợi ích trong ngày mai của loài người. Giá trị của nó là ở sự phục vụ xứng đáng cho đời sống xúc cảm và ý thức của loài người…”.(1)
Và cuối cùng, công tác giáo dục của bảo tồn có đạt được ý nghĩa hay không, chẳng thể không nói đến vai trò của các cán bộ GD, để thực thụ là cầu nối giữa bảo tàng và công chúng, các cán bộ giáo dục cần tự trau dồi và nâng cao năng lực. Họ cần được đào tạo để trở thành chuyên nghiệp hơn, làm việc có tính sư phạm hơn để có thể doanh nghiệp được những chương trình giáo dục ăn nhập với từng đối tượng công chúng khác nhau, bởi giáo dục của bảo tồn chẳng hề chỉ là GD trẻ mỏ dù rằng trẻ em có thể là lượng khách tham quan chính của bảo tàng.
Để thực hành tốt chức năng GD, nhằm phát huy tốt một mặt vai trò của bảo tàng trong đời sống từng lớp, để bảo tồn thật sự hấp dẫn, thu hút càng ngày càng đông hơn khách tham quan, các bảo tồn cần không ngừng thay đổi, phổ biến hóa các hoạt động, hướng tới đích đáp ứng công chúng một cách hoàn hảo. Bởi tính giáo dục không chỉ thuộc về những người làm công việc GD. Để tạo được môi trường tốt cho khách tham quan, học tập, các trưng bày của bảo tồn phải quyến rũ và có tính GD, gắn với nhu cầu của tầng lớp hiện đại, nhu cầu của công chúng. thông báo về cuộc trưng bày phải được chuyển tới công chúng trước khi họ đến với bảo tồn để họ có sự chuẩn bị trước về những điều họ sẽ được học. Các bài viết trưng bày phải ngắn gọn, dễ hiểu và khuyến khích người đọc. bảo tồn phải tạo cho họ sự thuận tiện và thoải mái khi họ đến thăm bảo tàng …
Với đối tượng công chúng là đời trẻ học đường, cùng với việc tạo lập diện tích văn hóa thích hợp để học sinh được tham gia hđ sáng tạo tại bảo tồn, thì sự phối hợp và liên kết chặt chẽ giữa các chương trình GD học sinh của các bảo tồn với ngành giáo dục, đặc trưng là các sở giáo dục, các dài, kiên cố sẽ giúp cho các chương trình GD đạt tác dụng cao hơn.
Vài nét về công tác GD ở các bảo tàng Việt Nam
Ở Việt Nam, nhận thức về hđ GD của bảo tồn hiện nay cũng đã có những chuyển biến đáng ghi nhận, đó không còn là tuyên truyền – quảng bá một chiều những ND được chuẩn bị trước của bảo tàng tới công chúng. định nghĩa “tuyên truyền” dần được thay thế bằng Khái niệm “GD”, tức thị cải cách bí quyết tiếp cận để bảo tồn có thể có nhiều hđ mang tính giáo dục rộng rãi và chất lượng cao hơn nhằm vấn khách đến với mình và đóng góp nhiều hơn cho từng lớp.
Các chương trình GD được kiểu dáng cho từng đối tượng biệt lập như người lớn, trẻ con, giới trẻ, sinh viên, cha, người cao tuổi, nhóm gia đình, nhóm người thiệt thòi (khiếm thính, mịt, dị tật...) loại hình của các hđ giáo dục cũng rất đa dạng: Các chương trình tham quan theo chủ đề, triển lãm chuyên đề, các lớp học ngắn hạn, lớp học nâng cao, các cuộc thi, các trò chơi tập thể, tổ chức các sự kiện văn hóa- nghệ thuật… . Phương châm của các chương trình hđ trong bảo tàng là hấp dẫn, hữu dụng, niềm vui và sáng tạo.
Đây là dung tích giúp học sinh trải nghiệm, ảnh hưởng, trao đổi, đàm đạo, học tập, đoàn luyện các kỹ năng và biểu thị sự sáng tạo của mình qua các hđ học mà chơi, chơi mà học theo hướng giáo dục hăng hái. Những hoạt động này gắn với nội dung trưng bày của mỗi bảo tàng và gần gũi với một số môn học tại nhà trường. ngoại giả, để tạo sân chơi hữu ích cho trẻ em, các bảo tồn còn công ty những sự kiện mang tính tập thể với những trò chơi trí óc cuộn sự tham gia rất nhiều của các em thiếu nhi nhân dịp Tết Thiếu nhi 1/6, Tết Trung thu... chẳng thể không nói đến đến hình thức Câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” và “Giờ học lịch sử tại bảo tàng” của bảo tồn Lịch sử quốc gia, hình thức này thành lập từ năm 2007 và chóng vánh trở nên sân chơi hữu ích, lý thú, thu hút học trò phổ thông trên địa bàn HN. hoạt động mang tính “thúc đẩy”, lại được tổ chức theo từng chuyên đề, Câu lạc bộ này đã trở thành điểm đến hấp dẫn, tạo cho các em chủ động tìm hiểu vấn đề dựa vào sự gợi mở của giáo viên từ những hiện vật di sản rõ ràng sinh động. Điều này đã gây hứng học tập, phát huy tính hăng hái và sáng tạo của học trò, củng cố và bổ trợ kiến thức cho các giờ học nội khóa, tạo môi trường và không khí học tập mới trong môn Lịch sử ở trường phổ quát, giúp các em yêu mến, hứng, ham mê tìm hiểu đối với môn Lịch sử ở dài nói riêng và lịch sử dân tộc tổng thể.
bên cạnh đó, cho dù đã có những canh tân tích cực từ nhận thức cho đến hoạt động như đã nói ở trên (ngoại trừ rất ít) thì nhìn chung các bảo tồn ở VN vẫn chưa thật sự cuốn được công chúng, đặc biệt là bạn teen, trong đó sự thiếu hụt, trống trải các chương trình giáo dục công chúng tại bảo tồn là một trong những thách thức làm khuyến mại trị bảo tàng và vai trò của bảo tàng ở nước ta.
Ở các nước có ngành bảo tàng tăng trưởng, phần nhiều các bảo tàng đều có trọng tâm, phòng hoặc phòng ban chuyên trách hoạt động giáo dục. Các cán bộ GD có một vai trò rất quan yếu, họ là những người được huấn luyện, có sự hiểu biết về bảo tồn và các sưu tập bảo tàng, có nhiệm vụ giúp công chúng - đặc thù là trẻ nít học và sử dụng bảo tàng. Họ ngày càng được tham gia tích cực hơn vào công đoạn công ty trưng bày, trực tiếp vào việc thiết kế ý tưởng, chủ đề, nội dung, các biện pháp trưng bày... tức là các khâu quan trọng nhất của công tác công ty triển lãm hiện vật bảo tồn.
http://thietkebaotang.com/
Cùng với giai đoạn phát triển lịch sử, bảo tàng có một vai trò ngày một lớn trong từng lớp, chức năng của bảo tồn luôn được bổ sung, cung cấp các nhu cầu tầng lớp. hiện tại, bảo tồn rộng rãi về hình thức, tính chất, quy mô, loại hình doanh nghiệp nhưng vẫn thực hành các chức năng mang tính truyền thống và các chức năng mới. mặc dầu còn tồn tại một số ý kiến khác nhau, nhưng căn bản các quan điểm đều thống nhất bảo tàng có các chức năng từng lớp sau: chức năng nghiên cứu khoa học, chức năng GD khoa học, chức năng bảo tồn di sản văn hóa, chức năng tài liệu hóa kỹ thuật, chức năng thông tin, chức năng giải trí và hưởng thụ văn hóa. Trong đó, nghiên cứu kỹ thuật và GD kỹ thuật là hai chức năng căn bản thường được nhắc đến.
Nhận xét
Đăng nhận xét